Mới đây, những thông tin về biến thể mới của virus SARS-CoV-2 đang lây lan nhanh tại Anh đã tiếp tục mang tới những mối lo cho toàn cầu. Biến thể mới này được cho là có khả năng lây nhiễm cao hơn 70%.
Biến chủng SARS-CoV-2 “đang được điều tra”
Biến thể này làm dấy lên lo ngại của mọi người về khả năng tạo nên một đại dịch mới và làm “tiêu tùng” hết các kế hoạch phát triển vaccine của loài người hiện nay.
Cụm từ “chủng biến thể” được sử dụng để chỉ các chủng virus có một số thay đổi về “trình tự gene” của chúng so với chủng gốc được phát hiện hồi năm 2019 ở Vũ Hán, Trung Quốc.
Sự biến đổi về “trình tự gene” của virus sau 1 khoảng thời gian là một hiện tượng xảy ra một cách tự nhiên vì trong quá trình lây nhiễm, sinh sản, chúng sao chép bộ gene của chúng và tạo ra những lỗi (như lỗi đánh máy). Tính cho đến nay, số lượng chủng biến thể của virus nCoV trên thế giới được phát hiện bằng phương pháp giải trình tự bộ gene từ người bệnh một cách ngẫu nhiên đã đạt con số vài nghìn, tuy nhiên, con số thực tế của chủng biến thể có thể nhiều hơn.
Hầu hết các chủng biến thể mà các nhà khoa học quan tâm là các chủng có sự biến đổi trên trình tự gene mã hóa cho protein S, một bộ phận trên màng được virus sử dụng như chìa khóa để tấn công vào tế bào người qua thụ thể có tên là ACE2.
Trở lại chủng biến thể gần đây ở Anh gây xôn xao dư luận, chủng này được đặt tên là “VUI – 202012/01” (VUI là viết tắt của “Variant Under Investigation”, tạm dịch là “Biến thể đang được điều tra”).
Chủng này có 17 đột biến trên bộ gene của nó, trong đó đột biến mà các nhà khoa học quan tâm nhất là N501Y, dẫn đến sự thay đổi trình tự amino acid trên protein S của virus ở vị trí 501, từ asparagines (viết tắt là N) thành tyrosine (viết tắt là Y).
Biến thể mới của virus nCoV ở Anh đáng lo ngại như thế nào?
Lo ngại biến chủng này “kháng vaccine” là chưa có cơ sở
Sự biến đổi này có thể làm tăng “ái lực” (lực gắn kết) protein S của virus và thụ thể ACE2 của tế bào con người, từ đó dẫn đến virus dễ bám và xâm nhập vào tế bào hơn, dễ lây nhiễm hơn.
Điều này có thể giúp giải thích cho việc gần đây số lượng người nhiễm chủng biến thể này chiếm đa số. Chủng này được phát hiện lần đầu tiên vào tháng 9; đến tháng 11, nó chiếm khoảng một phần tư số trường hợp nhiễm Covid-19 ở London; con số này đạt gần 2/3 số trường hợp vào giữa tháng 12.
Các lo ngại khác như “tăng độ độc” hoặc “làm các vaccine không nhận biết được” là chưa có cơ sở vì cho đến nay vẫn chưa có báo cáo khoa học cho thấy các bệnh nhân mắc loại virus biến thể này làm người nhiễm Covid-19 mắc bệnh nặng hơn và cũng chưa thấy sự tăng lên bất thường của những người tái nhiễm virus nCoV.
Hầu hết các vaccine ở đầu danh sách trong cuộc đua hiện nay đều nhắm đến chiến lược nhận biết virus nCoV qua protein S. Các thiết kế vaccine hầu hết đều nhắm đến việc tạo phản ứng miễn dịch của cơ thể trên tổng chiều dài đầy đủ (full length) của protein này với kích thước trên 1000 amino acids.
Do vậy, việc đột biến một vài amino acid trên protein S ở các chủng biến thể hiện nay khó có thể làm thay đổi hoàn toàn đặc điểm nhận dạng miễn dịch mà các vaccine đã thiết kế.
Ví dụ dễ hiểu hơn là một người đi giải phẫu thẩm mỹ mắt hoặc môi, sau đó những người quen biết vẫn nhận ra là gương mặt của người đó, hình ảnh trên passport vẫn có thể sử dụng được để qua hải quan.
Tóm lại, dựa trên các số liệu khoa học cho tới hiện nay, sự xuất hiện của biến thể mới làm dấy lên lo ngại về “tốc độ” lây nhiễm.
Do vậy những động thái cẩn trọng của các nước ở Châu Âu, đặc biệt ở Anh lúc này như phong tỏa, kiểm dịch biên giới, sân bay là cần thiết để kiểm soát số lượng người nhiễm, không làm quá tải bệnh viện. Ngoài ra, việc lo sợ chủng này làm cho hiệu quả vaccine hiện nay không còn nữa, hoặc tạo nên một đại dịch mới là không có cơ sở.
Khi nào biến chủng của nCov gây lo ngại nhất?
Vậy lúc nào là lúc đáng lo sợ nhất về chủng biến thể mới của virus nCoV? Đó là khi mà những người đã từng nhiễm virus một cách tự nhiên hoặc những người được chích vaccine bắt đầu bị nhiễm lại dù rằng trong cơ thể của họ vẫn có kháng thể để nhận biết virus.
Chúng ta hãy bình tĩnh, cẩn trọng phòng ngừa việc lây nhiễm virus nCoV, chích vaccine ngừa virus nCoV khi có thể (phải là vaccine được các cơ quan y tế uy tín cấp phép sử dụng) và tiếp tục quan sát thông tin về sự biến đổi của virus nCoV.